Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

Những góc khuất lịch sử qua chuyện tình và số phận của vị công chúa thời Trần

Trần Quỳnh Trân (? – 1308) là con vua Trần Thánh Tông và cung phi Vũ Thị Ngọc Lan. Bà cũng là chị ruột của vua Trần Nhân Tông. Do được sách phong là Thiên Thụy công chúa nên sử chép về bà đều chép là Thiên Thụy.

Quỳnh Trân xinh đẹp hiền dịu, rất được vua cha yêu quý. Bấy giờ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là một viên tướng kiêu dũng trí lược nổi danh trong triều. Năm 1257 khi quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ nhất, viên tướng trẻ Trần Khánh Dư đã lập mưu đánh bại một cánh quân của giặc, được vua Thánh Tông nhận làm Thiên tử nghĩa nam (con nuôi vua), phong làm Phiêu kỵ Đại tướng quân, một chức vụ mà đương thời, nếu không phải là hoàng tử thì không được phong. Là con nuôi vua, Nhân Huệ vương thường tự do ra vào nơi cung cấm, trước vẻ ung dung tự tại của ông, Quỳnh Trân vô cùng ngưỡng mộ, rồi không biết từ lúc nào đôi trai tài gái sắc đó đã yêu nhau say đắm.
Song thật trớ trêu, Hưng Vũ vương Nghiễn - con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng say mê Quỳnh Trân. Hưng Đạo vương dạm hỏi xin cưới Quỳnh Trân cho Hưng Vũ vương, không dám từ chối một người như Trần Hưng Đạo, vua cha hứa gả. Không thể cưỡng lệnh cha, Quỳnh Trân về với Hưng Vũ vương.

Nhưng không dứt được tình, Khánh Dư và Quỳnh Trân vẫn lén lút gặp nhau, rồi chuyện giữa hai người bị phát giác. Sự kiện tày trời đồn khắp trong ngoài, cha con Hưng Đạo vương rất tức giận. Bấy giờ vua Nhân Tông đã lên nối ngôi cha, sợ phật ý Hưng Đạo vương, nhưng lại thương chị gái, tiếc người tài, nên đức vua vờ ban lệnh cho đánh chết Khánh Dư rồi ngầm dặn không được đánh chết, sau đó xuống chiếu đoạt hết quan tước, tịch thu tài sản không để lại cho một chút gì. Khánh Dư phải lui về Chí Linh là thái ấp của phụ thân, ngày ngày đội nón lá mặc áo ngắn đi bán than. Còn Quỳnh Trân bị trả về sống tại cung riêng.

Năm 1282, quân Nguyên lăm le xâm lược Đại Việt lần thứ hai, vua Trần mở hội nghị Bình Than bàn kế chống giặc. Tại bến Bình Than, nhà vua bất chợt trông thấy Khánh Dư chèo chiếc thuyền lớn chở đầy than củi lướt qua. Đang cần tướng giỏi để cầm quân chống giặc, ngài mừng rỡ sai người dùng khinh thuyền đuổi theo triệu Khánh Dư đến, rồi cho theo xa giá về lại triều và phong ngay làm Phó Đô tướng quân quản lãnh một cánh quân mạnh chuẩn bị chặn giặc.
Về lại Thăng Long, Khánh Dư và Quỳnh Trân lại có cơ hội gặp nhau. Tình cũ chưa nguôi, họ lại quấn quýt không rời, đến nỗi chính sử phải chép: “Rút cuộc Khánh Dư cũng không sửa được lỗi lầm cũ”. Mối tình của hai người chắc hẳn phải ầm ĩ lắm nên sử mới chép kỹ đến như vậy.

Sau đó, do để giữ thể diện cho hoàng gia và hơn nữa, không muốn cha con Hưng Đạo vương tức giận và Trần Khánh Dư phải phân tâm khi cuộc chiến chống quân Nguyên đang sắp bắt đầu, vua Nhân Tông buộc lòng phải lệnh cho Quỳnh Trân xuất gia. Không còn cách nào khác, đầu năm 1284, công chúa Quỳnh Trân giã từ lầu son gác tía, đến với mảnh đất ven sông Văn Úc hoang sơ (nay là vùng ven biển Hải Phòng), chọn một gò đất cao lập am tu hành.

Cuối năm 1284, quân Nguyên do Trấn Nam vương Thoát Hoan chỉ huy tiến sang xâm lược. Năm 1285, tướng giặc là Ô Mã Nhi tiến đánh Vân Đồn - Vạn Kiếp, phòng tuyến bị phá vỡ. Trước thế giặc hung hãn, nhiều tôn thất nhà Trần và một số tướng soái đã hoảng sợ đầu hàng, vua Trần phải rút chạy vào Nghệ An. Thoát Hoan dồn binh lực đuổi theo. Trong tình thế vô cùng nguy cấp đó, triều đình buộc phải họp bàn tìm kế hoãn binh. Kế hoạch cử người sang gặp Thoát Hoan để cầu hòa được đa số tán đồng. Ngoài các lễ vật quý giá đưa sang làm quà tặng, triều đình quyết định chọn một công chúa có nhan sắc dâng cho Thoát Hoan để cầu thân. Người đầu tiên được triều đình bàn tới là công chúa Quỳnh Trân. Quỳnh Trân được đón về triều, song trước sự phản đối kiên quyết của bà, vua đành để bà trở về am cũ. Từ đó Quỳnh Trân một lòng quy Phật, mối tình với Khánh Dư bà mãi mãi chôn chặt trong lòng.

Tại nơi tu hành, bà lập điền trang trồng cấy lương thực, mở chợ cho dân buôn bán, quy tụ dân trong vùng đến làm ăn sinh sống, hình thành nên trang Nghi Dương (nay là xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Cái am nhỏ dần được bà dựng thành chùa, đêm ngày bà chuyên tâm gõ mõ tụng kinh niệm Phật, dân quanh vùng quen với tiếng mõ của bà, từ đó gọi ngôi chùa với cái tên mộc mạc là chùa Mõ. Trong thời gian tu hành, bà thường  cứu cấp chẩn bần, đem kiến thức của mình giáo hóa nhân dân, khuyến khích dân khai khẩn đất hoang, phát triển nông tang, lập thêm làng xóm. Có năm bị thiên tai mất mùa, bà xin vua miễn thuế cho năm xã trong vùng, dân rất nhớ ơn. Sau bà trở thành ni sư nổi tiếng, được tôn gọi là Thiền Đức đại ni.

Năm 1308, bà ốm nặng, Thượng hoàng Nhân Tông bấy giờ là Trúc Lâm đại sĩ, đang tu trên núi Yên Tử hạ sơn đến thăm chị gái. Trước lúc ra về, ngài ngậm ngùi cầm tay bà nói: “Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, Âm phủ có hỏi thì bảo rằng, xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay”. Ngày mồng 3 tháng 11 năm đó bà mất. Quả nhiên cùng ngày hôm đó Thượng hoàng Nhân Tông cũng băng hà. Nhân Tông là em ruột, lại là người chứng kiến cũng như xử lý toàn bộ chuyện tình ngang trái của công chúa Quỳnh Trân nên đã rất hiểu và vô cùng thương người chị gái đa đoan của mình. Cuộc viếng thăm của ngài trước khi bà ra đi có lẽ là lời tạ lỗi của đức vua với người chị gái tội nghiệp.

Sau khi bà viên tịch, dân trong vùng cảm công đức của bà đã lập đền thờ ngay tại nơi bà tu hành, tôn bà làm phúc thần, ngôi đền cũng được gọi bằng cái tên rất dân gian là đền Mõ. Bà được các triều đại bao phong là Ả nương Thiên Đức Quỳnh Trân công chúa. 
-----
(Nói thêm: Muốn biết những điều liên quan đến câu chuyện trên đây, bạn có thể đọc thêm Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, An Nam chí lược của Lê Trắc...- Nguyễn Thông)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét